Translate

Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

 

New hope for people with type 1 diabtes

 Scientists create the first transplantable human cells that make insulin. The transplanted cells were able to hide from the immune system. Researchers said this is a major advance in the pursuit of  safe and effective treatment for type 1 diabetes. Researchers used stem cell technology to generate the first human pancreatic cell clusters that can produce insulin while evading the immune system. Once transplanted in mice, these cell clusters controlled blood glucose without the need for immunosuppressive drugs.

 According to the WHO, the number of people with diabetes rose from 108 million in 1980 to 422 million in 2014. Most type 1 diabetics are children and teenagers. Type 1 diabetes is a lifelong condition that is challenging to manage even with automated devices that deliver insulin to regulate blood sugar. Transplants of pancreatic beta islets from donor tissue can provide a cure but require patients to take life-long immunosuppressing drugs.

 Pancreatic beta islets are clusters of cells that make insulin and other hormones. Researchers looked for better ways to replace lost pancreatic cells. Now, the new discovery could bring us closer to curing the disease. The team discovered a genetic switch called ERR-gamma that would make cells release insulin when they sense high glucose levels. An important part of the study was to develop a way to grow beta-like cells in an environment similar to the human pancreas. The team also discovered that a protein called WNT4 was able to turn on the ERR-gamma-driven switch.

 These multiple discoveries generated functional cell clusters similar to human islets. The team had to solve this issue of immune rejection. They expressed the protein PD-L1, which acts as an immune blocker. As a result, the transplanted organoids were able to hide from the immune system. Researchers’ next step is to test the system in clinical trials. The transplanted organoids need to be tested in mice for longer periods of time to verify their ability to produce long-lasting effects

 Niềm Hy Vọng mới cho người bị tiểu đường type 1

 Các nhà khoa học sẽ tạo ra các tế bào ở người có khả năng cấy ghép để sản xuất ra insulin. Những tế bào được dùng để cấy ghép có khả năng né tránh hệ miễn dịch. Các nhà nghiên cứu này cho biết đây chính là một bước tiến bộ quan trọng trọng việc theo đuổi một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả căn bệnh tiểu đường type 1. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật công nghệ tế bào gốc để tạo ra các cụm tế bào tụy ở người đầu tiên có khả năng sản sinh ra được insulin đồng thời lại né tránh được hệ miễn dịch. Sau khi được cấy ghép vào chuột thí nghiệm, những cụm tế bào này đã kiểm soát được lượng glucose máu mà không cần phải dùng đến các thuốc ức chế miễn dịch.

 Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, số người bị bệnh tiểu đường đã tăng lên từ 108 triệu người vào năm 1980 lên đến 422 triệu người vào năm 2014. Hầu hết người bị bệnh tiểu đường typ 1 là trẻ em và thiếu niên. Bệnh tiểu đường typ 1 là một căn bệnh suốt đời đầy thách thức cho việc xử trí thậm chí cả khi đã có những thiết bị tự động để đưa insulin vào cơ thể để điều hòa lượng đường huyết. phương pháp cấy ghép các đảo tế bào beta vào tụy lấy từ mô hiến tặng có thể đem đến một phương pháp điều trị dứt điểm nhưng lại buộc bệnh nhân phải sử dụng thuốc ức chế miễn dịch suốt đời.

 Đảo tế bào tuyến tụy beta là những cụm tế bào sản sinh ra insulin và các kích thích tố khác. Các nhà nghiên cứu đã tìm kiếm nhiều phương pháp tốt hơn để thay thế cho những tế bào tụy đã mất. hiện nay, với sự khám phá mới đã đem chúng ta càng đến gần hơn với việc điều trị dứt điểm căn bệnh này. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện một đoạn chuyển đổi ở gen gọi là ERR-gamma có khà năng tạo ra những tế bào phóng thích ra insulin khi chúng cảm nhận được lượng đường tăng cao. Phần quan trọng trong công trình nghiên cứu này chính là việc triển khai một phương cách nuôi lớn những tế bào giống tế bào beta của tuyến tụy này trong một môi trường tương tự như ở tuyến tụy của con người. nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy một phân tử đạm gọi là WNT4 có khả năng bật đoạn chuyển đổi ERR-gamma này lên

 Những khám phá này đã tạo ra những đảo tế bào có khả năng hoạt động tương tự như các đảo tế bào trong tụy ở người. nhóm nghiên cứu đã phải giải quyết đến vấn đề đào thải miễn dịch. Họ cho biết phân tử đạm PD-L1, có tác động giống như một thuốc ức chế miễn dịch. Kết quả là, những phần được cấy ghép này có khả năng trốn tránh khỏi sự truy lùng của hệ miễn dịch. Bước tiếp theo của họ là thử nghiệm phương pháp này trên lâm sàng. các phần mô đã được cấy ghép cần phải được thử nghiệm trên chuột lâu dài hơn để xác định khả năng tạo hiệu quả lâu dài.

 

 

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2020

 

Climate change is boosting antibiotic-resistant bacteria.

 

Bacteria grow and reproduce more quickly at a warmer temperature. A new study revealed that higher local temperatures can be related to increased antibiotic resistance in common bacteria strains. A 100C (100F) rise in local minimum temperature was associated with up to 4.2% increase in antibiotic-resistant strain in E.coli. this bacterium is responsible for drug-resistant tract urinary infections.

 Scientists believe that this association between antibiotic resistance and temperature could be increasing over time. When researchers correlated population density and antibiotic resistance, they found that an increase of 10,000 people for a square mile is associated with a 6% increase in antibiotic resistance in K. pneumoniae. K.peumoniae causes pneumonia, sepsis and, skin infection.

 Based on the study results, researchers suggest that bacteria transmission may occur more rapidly in more densely populated areas. Researchers also found that over-prescription leads to increased resistance. Up to 50% of all the antibiotics prescribed for people are unnecessary or not optimally effective as prescribed. When an antibiotic drug has no longer any effect on a certain type of bacteria that bacterium is said to be antibiotic-resistant.

Resistant bacteria can survive and multiply in the presence of an antibiotic. Bacteria may become drug-resistant in two ways. Either by inducing a genetic mutation or by acquiring resistance from another bacterium. Hotter temperature leads to increased bacterial growth and genetic mutations.

Different genetic mutations yield different types of resistance. Bacteria can also exchange DNA with one another and spread resistance through a process called horizontal gene transfer. The rate of this process increases at higher temperatures. Three factors: temperature, population density and prescription rates are all responsible for driving the growth of drug-resistant bacteria.

 

Hiện tượng biến đổi khí hậu đang tạo ra nhiều loại vi khuẩn kháng thuốc

 Ở nhiệt độ càng ấm, thì Vi khuẩn càng phát triển và nhân bội lên nhanh hơn. Một nghiên cứu mới đây cho thấy nhiệt độ càng cao có thể dẫn đến tình trạng đề kháng kháng sinh ngay ở các dòng vi khuẩn thông thường. khi nhiệt độ tại chỗ tăng lên 100C làm tăng đến 4.2% dòng vi khuẩn E.coli kháng thuốc. vi khuẩn này gây ra tình trạng nhiễm trùng đường tiểu kháng thuốc.

 Các nhà khoa học tin rằng mối tương qian giữa tình trạng đề kháng kháng sinh và nhiệt độ có thể ngày càng tăng. Khi các nhà nghiên cứu tìm mối liên hệ giữa mật độ dân số với tình trạng đề kháng kháng sinh, họ nhận thấy khi mật độ dân số cứ tăng lên 10,000 trong một dặm vuông thì sẽ đi kèm với tỷ lệ đề kháng kháng sinh là 6% trong dòng vi khuẩn K pneumoniae. Dòng vi khuẩn này gây chứng viêm phổi, nhiễm trùng huyết và nhiễm trung ngoài da.

 Dựa theo kết quả nghiên cứu này, các nhà khoa học cho rằng sự lây lan vi khuẩn có thể xảy ra nhanh hơn ở những vùng có mật độ dân cư đông đúc. Và việc kê toa quá mức các loại kháng sinh sẽ làm gia tăng hiện tượng kháng thuốc. có đến 50% các loại kháng sinh thường được kê toa là không cần thiết hoặc không đạt được hiệu quả tối ưu như mong muốn. Khi một kháng sinh không còn hiệu quả với một loại vi khuẩn nào đó thì người ta nói rằng vi khuẩn đó đang đề kháng lại với kháng sinh đó.

 Vi khuẩn kháng thuốc sẽ tồn tại và sinh sôi nảy nở ngay cả khi đang dùng của kháng sinh. Vi khuẩn có thể trở nên kháng thuốc theo hai cách: hoặc là bằng cách tạo ra quá trình đột biến gen hoặc tạo ra tình trạng đề kháng thông qua một vi khuẩn khác. Nhiệt độ càng nóng sẽ càng dẫn đến việc phát triển của vi khuẩn và làm cho hiện tượng đột biến gen tăng lên

 Mỗi quá trình đột biến gen khác nhau lại sinh ra các dạng đề kháng thuốc khác nhau. Vi khuẩn cũng có thể trao đổi DNA với một vi khuẩn khác rồi lan truyền tình trạng kháng thuốc này thông qua một quá trính gọi là chuyển giao gen theo chiều ngang. khi nhiệt độ càng nóng lên, thì tốc độ xảy ra quá trình này sẽ càng tăng lên. Có ba yếu tố tạo ra vi khuẩn kháng thuốc là: nhiệt độ, mật độ dân số và tỷ lê kê toa thuốc kháng sinh.

 

 

 

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2020

 

New treatment slows the progression of ALS disease in humans.

 

New ALS treatment appears to slow disease progression, research shows. The research was supported in part by donations from the ICE Bucket Challenge which successfully raised more than $200 million in 2015.

 

Amyotrophic lateral sclerosis (ALS), as known as Lou Gehrig’s disease is an incurable neurological disorder that affects a person’s volunteer muscle movement. ALS gets worse with time. In the disease’s final stage, patients lose their ability or speak. Most ALS patients will die within just 5 years of developing symptoms. ALS destroys the nerve cells that control the muscles that allow us to move, speak, eat, and even breathe.

 

The new ALS treatment is a combination of two drugs. A supplement (taurusordiol) and a medication used to treat a pediatric urea disorder (sodium phenylbutyrate). Each drug targets a different cell structure. In 2013, researchers came up with the idea to combine the two to treat brain disorders. Researchers conducted a phase 2 a clinical trial to see whether the drug combo might help ALS patients. They gave two-thirds of the 137 participants daily doses of the new treatment. The other third received a placebo. They then used the ALS functional Rating Scale Questionaire.

 

The questionnaire helps researchers evaluate the participants’ ALS progression over the course of the six-month study. A core 48 on that scale indicates a completely normal motor function. As physical abilities deteriorate, the score drops. Over the course of the trial, the score of the patients who receive the placebo decreased by 2 points more than those who received the new ALS treatment.

 

This two-point the difference in questionnaire scores might not seem like much, but it can mean a dramatic difference in ALS patients’ quality of life like being able to feed themselves versus being fed or walking versus needing a wheelchair. The drug is not a cure, but it may help slow the disability caused by ALS. Advocates are now calling the FDA to speed up the drug’s approval

 

Sự khác biệt 2 điểm trong thang điểm ở bảng câu hỏi có vẻ không nhiều, nhưng nó có thể có ý nghĩa khác biệt lớn về chất lượng sống của những bệnh nhân ALS chẳng hản như có thể tự ăn uống được so với việc phải đút cho ăn hay có thể đi bộ được so với việc phải ngồi xe lăn. Thuốc này không điều trị khỏi được bệnh, nhưng nó giúp làm chậm sự tàn phế do ALS gây ra. Những người ủng hộ phương pháp này đang kêu gọi FDA nhanh chóng chuẩn thuận loại thuốc này.

 

Phương pháp điều trị mới làm chậm diễn tiến của bệnh Xơ cứng teo cơ một bên ở người

 

Phương pháp điều trị mới bệnh xơ cứng teo cơ một bên có vẻ như làm chận diễn biến của bệnh lại. nghiên cứu này được hỗ trợ bởi sự quyên tặng từ hội ICE Bucket Challenge đã quyên góp thành công được 200 triệu đô tính đến năm 2015.

 

Bệnh xơ cứng gây teo cơ một bên người, còn được gọi là bệnh Lou Gehrig’s là chứng rối loạn thần kinh không có khả năng điều trị khỏi, bệnh tác động đến các cử động tự chủ của cơ. Theo thời gian, bệnh cứ nặng dần. ở giai đoạn cuối, bệnh nhân mất khả năng cử động, hay nói. Hầu hết các bệnh nhân bị chứng bệnh này sẽ chết trong vòng 5 năm kể từ khi phát sinh triệu chứng. chứng xơ cứng teo cơ một bên người này phá hủy các tế bào thần kinh kiểm soát các nhóm cơ giúp chúng ta cử động, nói năng, ăn uống và thậm chí là hít thở không khí.

 

Phương pháp mới điều trị bệnh ALS là phương pháp dùng phối hợp hai thứ thuốc. một loại thuộc dạng bổ sung (là chất taurusordiol) và một loại thuốc được dùng để trị chứng rối loạn chuyển hóa urea ở trẻ (chất sodium phenylbutyrate). Mỗi thứ nhắm vào một cấu trúc khác nhau trên tế bào. Vào năm 2013, các nhà nghiên cứu nghĩ ra ý tưởng kết hợp hai thứ thuốc này để điều trị các chứng rối loạn thần kinh. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành công trình thử nghiệm phase 2 trên lâm sàng để xem liệu sự phối hợp hai thứ thuốc này có khả năng giúp gì được cho các bệnh nhân ALS hay không. họ đã cho 2/3 số đối tượng tham gia nghiên cứu sử dụng liều điều trị hàng ngày theo phương pháp điều trị mới này. 1 phần 3 số còn lại được cho dùng giả dược. rồi họ sử dụng bảng câu hỏi theo thang điểm để đánh giá chức năng của tình trạng bệnh này.

 

Bảng câu hỏi sẽ giúp các nhà nghiên cứu đánh giá diễn biến của bệnh xơ teo cơ một bên ở những người tham gia nghiên cứu suốt quá trình nghiên cứu trong sáu tháng. 48 là điểm trên thang điểm đánh giá chứng tỏ bệnh nhân có chức năng vận động bình thường. khi chức năng hoạt động bị giảm sút, thì điểm số này cũng giảm xuống. suốt quá trình thử nghiệm, điểm số của các bệnh nhân được cho dùng giả dược giảm mất 2 điểm so với người được điều trị theo phương pháp mới này.

 

Sự khác biệt 2 điểm trong bảng câu hỏi có vẻ không nhiều, nhưng nó có thể có ý nghĩa khác biệt lớn về chất lượng sống của những bệnh nhân ALS chẳng hản như có thể tự ăn uống được so với việc phải đút cho ăn hay có thể đi bộ được so với việc phải ngồi xe lăn. Thuốc này không điều trị khỏi được bệnh, nhưng nó giúp làm chậm sự tàn phế do ALS gây ra. Những người ủng hộ phương pháp này đang kêu gọi FDA nhanh chóng chuẩn thuận loại thuốc này.

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2020

 

Honeybee venom can kill aggressive breast cancer cells

 

Honeybee venom rapidly kills aggressive breast cancer cells, the study reveals. A new groundbreaking study found that venom from honeybees could destroy aggressive and resistant breast cancer cells. The study also found the venom was extremely effective in reducing tumor growth in mice when it was combined with existing chemotherapy drugs.

 

Researchers said honeybee venom had proven to be extremely potent at concentrations that aren’t as damaging to normal cells. They hope the discovery could lead to the development of a treatment for triple-negative breast cancer. Triple-negative breast cancer accounts for 10 to 15% of all breast cancers. There are currently no clinically effective targeted therapies.

 

The study showed a specific concentration of the venom killed 100% of triple-negative breast cancer and HER-2 enriched breast cancer cells. These results were achieved within 60 minutes. The venom had minimal effects on normal healthy cells. For the study, bees were put to sleep with carbon dioxide. They were kept on ice before the venom was extracted and injected into the tumors. A component of venom called melittin had a killing effect.

 

The researchers reproduced melittin synthetically. They found it had the majority of the anti-cancer effects of the honeybee venom. Melittin enters the surface of the cell or the plasma membrane and forms holes or poles, causing the cell to die. The researchers also discovered within 20 minutes the melittin had another powerful effect. They found melittin was jamming the main messaging or cancer-signaling pathways that are fundamental for the growth and replication of cancer cells.

 

Researchers also examined the effect of melittin used in combination with existing chemotherapy drugs. They found the holes in breast cancer membranes caused by the melittin allowed the chemotherapy to enter the cell. As a result, it worked extremely effectively in reducing growth in mice.

 

Nọc ong mật có thể tiêu diệt tế bào ung thư vú đang hoạt động

 

Nghiên cứu cho thấy, Nọc ong mật nhanh chóng tiêu diệt được các tế bào ung thư vú. Một công trình nghiên cứu đột phá mới cho thấy nọc lấy từ ong mật có thể tiêu diệt các tế bào ung thư vú đang hoạt động hay đang kháng lại thuốc điều trị. Nghiên cứu cũng phát hiện nọc cực kỳ hiệu quả trong việc làm giảm quá trình phát triển của khối u trên chuột thí nghiệm khi được dùng phối hợp với các loại hoác chất hiện hành.

 

Các nhà nghiên cứu nói răng nọc ong mật đã chứng minh có được cực mạnh ở những nồng độ nhất định lại không làm tổn hại đến các tế bào bình thường. họ hy vọng với khám phá này có thể đẫn đến việc triển khai một phương pháp điều trị thể ung thư vú không do các thụ cảm với estrogen, progesterone và HER2 chiếm từ 10 đến 15% tất cả các thể bệnh ung thư vú. Hiện nay không có một phương pháp điều trị trúng đích nào có hiệu quả trên lâm sàng.

 

NGhiên cứu cho thấy với một nồng độ cụ thể nọc ong tiêu diệt được 100% các tế bào ung thư vú không nhạy với thụ cảm nội tiết tố và các tế bào ung thư vú do HER-2 gây ra. Những kết quả này đã đạt được trong vòng 60 phút. Nọc của ong mật có ít ảnh hưởng đến các tế bào khỏe mạnh bình thường. theo nghiên cứu này, Ong mật được gây ngủ bằng than khí. Rồi chúng được giữ trong đá lạnh trước khi lấy nọc rồi đem chích vào khối ung thư. Một thành phần có trong nọc được gọi là melittin đã có tác dụng tiêu diệt này.

 

Các nhà nghiên cứu đã mô phỏng lại chất melittin dưới dạng tổng hợp. họ nhận thấy chất này đều có đầy đủ tính chất kháng ung thư như ơ nọc của ong mật. chất melittin đi qua lớp màng tế bào hay lớp màng huyết tương rồi tạo ra những chỗ lồi lõm, khiến cho tế bào bị chết. các nhà nghiên cứu cũng phát hiện chỉ trong vòng 20 phút chất melittin còn có một tác dụng cực mạnh khác. Họ nhận thấy melittin đang dồn nén đường truyền tín hiệu chính của các tế bào ung thư, đây là những điểm mấu chốt giúp tế bào ung thư tăng trưởng và nhân lên.

 

Các nhà nghiên cứu cũng khảo sát tác dụng của chất melittin được sử dụng kết hợp với các thuốc hóa trị hiện có. Họ phát hiện các lỗ xuất hiện bên trong các màng của tế bào ung thư vú do melittin gây ra đã giúp cho các thuốc hóa trị đi vào được tế bào. Kết quả là, chất này có tác dụng cực kỳ hiệu quả trong việc làm giảm quá trình phát triển khối u ở chuột thí nghiệm.