Translate

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2020

cách phòng tránh bị sạn thận


Cứ 10 người sẽ có 1 người bị sạn thận trong suốt cuộc đời của mình. Các chuyên gia về sức khỏe khuyên cáo nên giữ cho cơ thể đủ nước và giảm tiêu thụ thực phầm làm tăng nguy cơ bị sạn thận.



1.Giữ cho cơ thể đủ nước. do nước tiểu chứa nhiều nước nên không dễ dàng để khoáng chất và muối tạo thành sạn. nước tiểu sậm màu là dấu hiệu của tình trạng thiếu nước trong cơ thể. nước tiểu thường có màu vàng nhạt, vì thế, các chuyên gia khuyến cáo một người nên uống từ 6 đến 8 ly nước mỗi ngày.



2.Hãy giảm lượng muối ăn vào. muối có thể làm tăng tình trạng giữ nước trong cơ thể rồi dẫn đến thiếu nước. muối cũng làm tăng lượng calci trong nước tiểu. các chuyên gia cho rằng người lớn nên giữ lượng muối ăn mỗi ngày dưới 2,300 mg. bằng với 1 muỗng cà phê muối ăn. Một vài thí dụ về thực phẩm chứa nhiều muối là khoai tây chiên, thịt nguội hay thịt hun khói. Ngoài ra còn có các bữa ăn đã được sơ chế hay đóng gói sẵn



3.Hạn chế ăn các thực phẩm có chứa oxalate calci. Sạn thận được tạo thành bởi nhiều hợp chất khác nhau. Những hợp chất này gồm có acid uric, struvite và cysteine. Loại sạn thận phổ biến nhất có liên quan đến oxalate calci. Một nghiên cứu đã phân tích 44.000 viên sỏi thận. cho thấy có đến 67% chủ yếu cấu tạo bởi oxalate calci. Bác sỹ thường khuyến cáo nên hạn chế ăn oxalate đối với người có nguy cơ cao bị sạn thận hay đối với người có lượng oxalate cao. Việc ăn

calci cùng với thức ăn có nhiều oxalate có thể làm giảm bớt nguy cơ bị sạn thận do nó khiến cho các hóa chất này kết lại với nhu trước khi đến thận. thức ăn có chứa oxalate cao bao gồm nho, nước việt quất, khoai tây và đậu nành.



4.Hạn chế ăn đạm động vật. bạn cũng nên hạn chế ăn đạm động vật như thịt đỏ, thịt gia cầm, trứng và hải sản. chất đạm động vật làm tăng lượng acid uric và có thể dẫn đến sạn thận. một chế độ ăn giàu đạm cũng làm giảm lượng citrate. Citrate là một hóa chất có trong nước tiểu giúp ngăn chặn quá trình tạo sạn.


Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2020

Vấn đề thở máy cho bệnh nhân nhiễm Covid-19


Việc để bệnh nhân bị Covid-19 thở máy có thể gây hại cho một số bệnh nhân. giới chức Y tế đang tập trung vào việc đàm bảo an toàn hơn khi sữ dụng máy thở  khi điều trị cho bệnh nhân bị nhiễm Covid-19. Nhưng nhiều bác sỹ lại đang dẹp máy thở sang một bên. Có vài bệnh viện đã báo cáo tỷ lệ tử vong cao ở những bệnh nhân nhiễm Covid-19 đang được thở máy và  họ lo ngại rằng những cỗ máy này có thể đưa bệnh nhân vào tình trạng nguy hiểm. máy thở đưa áp suất vào phổi, khiến nhiều bệnh nhân già không thể chịu nổi.



Khi sử dụng máy thở lại phải dùng thuốc an thần và đặt ống nội khí quản cho bệnh nhân. nói chung, có từ 40 đến 50% bệnh nhân bị suy hộ hấp nặng đã tử vong trong khi đang được thở máy. 80% bệnh nhân nhiễm Covid-19 đang được thở máy ở New York đã tử vong. tương tự, nước Anh đã báo cáo có 66% bệnh nhân đang thở máy đã tử vong. một số khác lại lệ thuộc hoàn toàn vào máy thở.



Máy thở là thứ máy phức tạp, cần phải có kinh nghiệm khi vận hành để điềuc hỉnh lượng khí ra vào phổi bệnh nhân và áp suất của luồng khí này lại hoàn toàn khác biệt với từng người. một số bác sỹ cho rằng máy thở đang bị lạm dụng thậm chí cả cho những người không cần đến chúng. Các chuyên gia cho biết những bệnh nhân bị viêm phổi do vi trùng có thể phải thở máy trong vòng từ 1 đến 3 ngày.



Bệnh nhân nhiễm Covid-19 phải đặt máy thở lên đến 15 ngày và đây là một trong những lý do tại sao đã dẫn đến tình trạng thiếu thiết bị. thay vì cho thở máy, thì nên sử dụng phương pháp cho thở dưỡng khí là đủ. Điều này không có nghĩa là máy thở vô dụng, chỉ muốn nói lả ta có thêm các chọn lựa khác để cân nhắc tùy thuộc vào nhu cầu và tình trạng của từng bệnh nhân. một số chuyên gia nghiên cứu thấy rang máy thở có thể gây kích ứng phản ứng có hại ở hệ miễn dịch. Phương pháp cho thở máy có thể cũng làm xấu hơn đến tình trạng tổn thương ở phổi. có thể giảm bớt những mối nguy hiểm do máy thở bằng cách hạn chế lượng áp suất và tốc độ thở từ máy.








Ventilators are not good to Covid-19 patients is it true?


Putting Covid-19 patients on ventilators could be harming some patients. Health officials are focusing on securing more ventilators to treat coronavirus patients. But many doctors are moving away from using them. Some hospitals have reported high death rates for Covid-19 patients on ventilators and some doctors worry that the machines could be putting some patients at risk. Ventilators exert pressure on the lungs, which many elderly patients can’t handle.



Using ventilators involves sedating a patient and sticking a tube into the throat, in general, 40% to 50% of patients with severe respiratory distress die while on ventilators 80% of coronavirus patients placed on the machines in New York have died. Similarly, the UK reported thzt 66% pf patients plced on machines have died. Some patients are becoming completely dependent on them to breathe.



Ventilators are complex machines and require experience to operate as the amount of airflow and pressure can be different for each. Some doctors think that ventilators are being overused even for those who don’t need them. Experts say that patients with bacterial pneumonia may be on a ventilator for 1 or 3 days.



Coronavirus patients are placed on a ventilator for up to 15 days and this is one of the reasons why ventilators could grow in short supply. Instead, they recommend the use of oxygen therapy as well. This doesn’t mean ventilators are useless, it just means other options should also be considered depending on the needs and conditions of each patient. Some experts speculate that ventilators might ignite a harmful immune system reaction. Medical ventilation may also worsen lung injury. The dangers of ventilators can be reduced by limiting the amount of pressure and the sixe of breaths provided by the machine


Thứ Năm, 28 tháng 5, 2020

kết quả của phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần đối với bệnh ung thư bàng qung đã xâm lấn đến cơ


Phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần đem lại thời gian sống tốt hơn so với phương pháp phối hợp Hóa-xạ-phẫu thuật


Một công trình nghiên cứu mới đây đã xác định: Phẫu thuật cắt bằng quang triệt căn có thể hiệu quả và ít tốn kém hơn so với phương pháp trị liệu phối hợp (Hóa-Xạ-Phẫu thuật) [Trimodal therapy] đối với người lớn tuổi bị ung thư bàng quang đã xâm lấn vào cơ


Dùng phương pháp theo dõi, Dịch tễ học, và dữ liệu liên quan đến quyết toán bảo hiểm Medicare. Stephen B Williams, MD và đồng nghiệp thuộc viện đại học Texas có chi nhánh ở Galveston đã phân tích kết quả trong một công trình nghiên cứu có cùng dữ liệu so sánh trên 1374 bệnh nhân ở giai đoạn ung thư bang quang từ T2 đến T4a: có 687 bệnh nhân được phẫu thuật cắt bang quang triệt căn (đơn thuần hay có kèm với hóa hay xạ trị) và so với nhóm 687 bệnh nhân có cùng tiêu chuẩn được điều trị theo phương pháp phối hợp hóa-xạ-phẫu thuật. những bệnh nhân này đều có tuổi từ 60 trở lên.


Những bệnh nhân được điều trị ba mô thức phối hợp (phẫu-Hóa-Xạ trị) tăng nguy cơ tử vong vì mọi lý do đáng kể lên đến 49% và tăng nguy cơ tử vong cụ thể do ung thư đên 55% so với những người được phẫu thuật cắt toàn phần bang quang triệt căn, các nhà nghiên cứu đã báo cáo kết quả trên trong tạp chí ngoại khoa JAMA. Phương pháp hóa trị bằng Cisplatin hay 5FU cộng với mitomycin có liên quan đến thời gian sống tốt hơn các phác đồ hóa trị khác. Nhưng vẫn kém hiệu quả hơn phẫu thuật cắt toàn phần bàng quang.


Theo một bài bình luận viết sau đó, David Cahn, DO, MBS, Elizabeth Handort, PhD và Mrc Smaldone, MD, MSHP, thuộc trung tâm ung thư Chase ở bang Philadelphia, đã bắt bẻ rằng những kết quả của công trinh nghiên cứu này không giải quyết được vấn đề liệu phẫu thuật cắt bàng quang toàn phần hay phương pháp điều trị phối hợp ba mô thức thí cái nào là tốt nhất đối với bệnh ung thư bàng quang đã xâm lấn đến cơ. Số liệu này vẫn chưa đủ chi tiết để có được các biến số thuyết phục, như mức độ tổn thương do khối bướu gây ra, mức độ cắt bỏ khi phẫu thuật và xu hướng chọn lựa phương pháp điều trị của các bệnh nhân.


Thứ Ba, 26 tháng 5, 2020

Bệnh nhân chờ ghép tạng nên được khám chuyên khoa da liễu


Nên để bác sỹ chuyên khoa da liễu khám cho những bệnh
nhân chờ ghép tạng. một công trình nghiên cưu mới đã tán
thành việc đẩy mạnh tầm soát và theo dõi, và phòng ngừa
bệnh ung thư da và tình trạng nhiễm bệnh goài da ở những
bệnh nhân chờ ghép tạng đặc. 

Có gần 40.000 trường hợp ghép tạng đã được thực hiện tại Mỹ
vào năm 2019, tăng 9% so với năm 2018.Con số này dự kiến
tiếp tục sẽ tăng lên khi có sự gia tăng việc hiến tạng và những
đổi mới như phương pháp ghép tạng cộng hưởng, việc hiến
tạng bị nhiễm viêm gan siêu vi C, và việc bảo quản tạng đã
dược cải tiến đã mở rộng ngân hàng bảo quan các nội tạng



Số người chờ được ghép tạng tăng nguy cơ bị carcinoma tế
bào vẩy lên từ 60 đến 100 lần, một loại bệnh ung thư da phổ
biến đứng hàng thú hai tại Mỹ, so với những bệnh nhân có hệ
mễn dịch bình thường. nguy cơ bị ung thư tế bào nền, loại ung
thư da phổ biến nhất, đă tăng gấp 10 lần trong khi nguy cơ bị u
hắc tố là 3.5 lần so với trườnhợp ở những bệnh nhân có hệ
miễn dịch tốt. khi những bệnh nhân chờ ghép tạng đặc bị ung
thư da hoặc bị nhiễm trùng ngoài da, thì nguy cơ bị biến
chứng nặng và tử vong sẽ tăng lên đáng kể.



Kết cục, Hội Da Liễu Mỹ nhấn mạnh vào những điểm sau đây:

·          Đi tầm soát ung thư da thường quy và theo dõi sau khi được ghép tạng sẽ giảm được tỷ lệ biến chứng và tử vong do ung thư da gây ra. Xuất độ tầm soát bệnh ung thư da này sẽ tùy thuộc vào những yếu tố sau đây, không có giới nào, loại da, tiền sử mắc bệnh ung thư da, và có biểu hiện các sang thương tiền ung thư

·          Bệnh nhân đã được ghép tạng phải tránh ánh nắng. việc hướng dẫn cho bệnh nhân bao gồm nhắc nhở họ rằng việc sử dụng kem chống nắng đều đặn, như là một phần của chiến lược bảo vệ khỏi tia tử ngoại như tránh tiếp xúc với ánh nắng và mặc quần áo chống nắng, sẽ giảm được tỷ lệ phát sinh những sang thương tiền ung thư, ung thư tế bào vẩy xâm lấn, đếm một mức độ thấp hơn, ung thư tế bào nền, ở những người đã được ghép tạng lại bị ức chế hệ miễn dịch

·          Nên khuyến khích Sự phối hợp giữa bác sỹ chuyên khoa da liễu và bác sỹ ghép tạng để đảm bảo thường xuyên có việc khám da tòan thân bởi bác sỹ chuyên khoa da liễu ở các phòng khám chuyên khoa đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao, cả trước và sau khi được ghép tạng.










Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

Bệnh loét dạ dày


Bệnh loét dạ dày

Loét dạ dày là một vết thương ở lớp niêm mặc của dạ dày và tá tràng. Dạ dày của bạn có một lớp tế bào tiết ra chất nhầy bao bọc lấy mặt trong của dạ dày, bảo vệ nó khỏi dịch tiêu hóa. Các ổ loét dạ dày xảy ra khi lớp màng bảo vệ này bị tổn thương. Tình trạng này khiến cho dịch vị sẽ ăn mòn lớp mô nhạy cảm nằm ở bên dưới. đa phần các ổ loét dạ dày đều do vi khuẩn Helicobacter gây ra. Vi khuẩn này sinh sôi trong đường tiêu hóa của người và nằm trong lớp niêm mạc của dạ dày dẫn đến tình trạng viêm



Cả dịch vị và vi khuẩn đều kích thích lớp niêm mạc gây ra một vết thương hay vết loét. có khoảng 50% dân số trên thế giới bị nhiễm vi khuẩn H.pylori, 10% số người bị nhiễm vi khuẩn này có thể phát sinh một ổ loét. việc sử dụng lâu dài thuốc kháng viêm không thuộc nhóm steroid cũng có thể gây ra tình trạng loét dạ dày. Một số thuốc NSAIDs mua không cần toa như aspirin, Ibuprofen, hay naproxen. Một căn bệnh hiếm gặp gọi là hội chứng Zollinger-Ellison cũng có thể gây ra nhiều ổ loét ở dạ dày. Trong bệnh này, cơ thề của bệnh nhân tiết ra lượng dịch vị quá nhiều gây tổn thương đến lớp niêm mạc bảo vệ của dạ dày.



Người bị nhiễm H.pylori tăng nguy cơ bị ung thư dạ dày và ung thư ruột. vi khuẩn HP gây ra những xáo trộn trong tế bào niêm mạc dạ dày. Những xáo trộn này có liên quan đến bệnh ung thư dạ dày và những bệnh ung thư khác. Vi khuẩn này tự bảo vệ chúng khỏi các tế bào miễn dịch và không để cho quá trình sửa chữa lớp niêm mạc dạ dày đã bị tổn thương xảy ra. Tình trạng viêm kéo dài có thể gây ra tình trạng viêm mạn tính rồi sẽ dẫn đến ung thư dạ dày. Việc sử dụng liều cao NSAIDs cũng làm giảm dòng máu cung cấp đến dạ dày gây cản trở khả năng sửa chữa tế bào của cơ thể, như vậy, làm tăng nguy cơ phát sinh bệnh ung thư.















A stomach ulcer



A stomach ulcer is a sore in the lining of the stomach or duodenum. Your stomach has a lining of mucous secreting cells that coats the inside of the stomach, protecting it from digestive juices. Stomach ulcers occur when this protective lining is damaged. This allows for stomach acids to eat away the underneath sensitive tissue. The majority of stomach ulcers are caused by the Helicobacter Bacteria. The bacteria grow in the digestive tract of human and in the lining of the stomach leading to inflammation



Both the acid and the bacteria irritate the lining causing a sore or ulcer. About 50% of the global population is infected with Hellicobacter Pylori, 10% of those infected with H. Pylori may develop an ulcer. Long -term use of nonsteroidal anti-inflammatory drugs (NSAIDs) can also cause stomach ulcers. Some over the counter NSAIDs include aspirin, Ibuprofen, or naproxen. A rare disease called Zollinger-Ellison syndrome can also cause stomach ulcers. In this disease, the body of the patient produces exceesively amounts of stomach acid which damages the protective mucous lining of the stomach.



Excessive use of alcohol increases the risk of developing ulcers. The most common symptom of stomach ulcer is pain in the abdomen. Other symptoms include nausea, vomiting, loss of appetite and weight loss. Treatments include antibiotics and acid-suppressing medications. If left untreated, stomach ulcers can become severe and can burn through the wall of the stomach. This allows the digestive juices and food to leak into the abdominal cavity. This severe medical emergency is known as a perforated ulcer. Some stomach ulcers may set the stage for stomach cancer.



People infected with H.pylori have an increased risk of stomach and bowel cancer. H.pylori bacteria cause alterations in the cells lining the stomach. These alterations are associated with stpmach and other cancers. The bacteria proctec themselves from the immune cells and do not allow the repair of the damaged stomach lining. Prolonged inflammation can cause chronic inflammation which can lead to stomach cancer. Also, the hgh doses of NSAIDs reduce the flow of blood to the stomach interfering with the body’s ability to reapair cells thus, increasing the chances of developing cancer

Mắt nhân tạo: một hy vọng mới cho người khiếm thị


Mắt nhân tạo



Mắt nhân tạo có thể còn hoạt động tốt hơn cả mắt người. các nhà nghiên cứu cho biết thiết bị này bắt chước cấu trúc của mắt người. thiết bị này có thời gian phản ứng với ánh sáng còn nhanh hơn mắt thật. các nhà nghiên cứu cho biết thiết bị sử dụng diện này có khả năng nhìn sắc nét hơn cả mắt người. mắt người có thị trường nhìn rộng và thị lực có độ phân giải cao nhờ lớp võng mạc có hình vòng cung nằm ở phía sau nhãn cầu. võng mạc được lót bởi những tế bào có khả năng nhạy cảm với ánh sáng hay còn gọi là thụ cảm với ánh sáng.



Để bắt chước như cấu trúc này trong cấu tạo của mắt tổng hợp, các nhà khoa học đã sử dụng một lớp màng bằng chất aluminum oxide đã được uốn cong lại có gắn các thụ cảm kích thước rất nhỏ được làm từ một chất liệu nhạy với ánh sáng gọi là perovskite. Các sợi này được nối vào lớp võng mạc nhân tạo sẽ gửi những tín hiệu được phóng đại lên từ những thụ cảm này đến một mạch điện bên ngoài để xử lý. Quá trình này tương tự như các sợi thần kinh đang truyền các tín hiệu từ một nhãn cầu thật lên não bộ.



Mắt nhân tạo ghi nhận những thay đổi về ánh sáng còn nhanh hơn mắt thật. thiết bị mới này có tốc độ lên tới khoảng 30 đến 40 phần ngàn giây so với mắt thật là 40 đến 150 phần ngàn giây. Thiết bị này cũng có thể nhìn thấy cả ánh sáng lờ mờ y như mắt thật. thị trường của mắt nhân tạo (100 độ) không rộng bằng mắt thật (150 độ). Nhưng nó lại tốt hơn thị trường 70 độ có trong các thụ cảm với hình ảnh ở mặt phẳng bình thường.



Mắt tổng hợp này có thể tiếp nhận độ phân giải cao hơn cả mắt thật bởi lẽ nó có đến khoảng 460 triệu thụ cảm với ánh sáng trên một centi-met vuông. Võng mạc người chỉ có khoảng 10 tế bào nhạy với ánh sáng trên 1 cm vuông nhưng mỗi một thụ cảm này lại cần phải có sự đọc riêng rẽ rồi mới kết nối lại. tron g thiết bị hiện tại này, mỗi một dây lại có bề dày đến 1mm đến độ chỉ có khoảng 100 sợi như thế mới vừa với phần sau của võng mạc. điều này có nghĩa là mắt tổng hợp có thể tạo ra những hình ảnh có độ phân giải lên đến 100 pixels.



Nhưng đội ngũ nghiên cứu còn muốn chứng minh các sợi mỏng hơn này vẫn có thể nối lại được và muốn chứng minh mắt nhân tạo có thể tạo ra một độ phân giải cao hơn. Vì thế, họ đã sử dụng một từ trường để gắn một hàng nhỏ kim bằng kim loại lại với nhau. Mỗi một cái kim này có độ dày từ 20 đến 100 micro mili mét. Chúng dược gắn kết lại với nhau từng cái một vào với những thụ cảm thật nhỏ trên lớp võng mạc nhân tạo (tổng hợp). các nhà nghiên cứu cho biết thách thức tiếp theo đó là phải tìm ra một cách hữu hiệu nào đó để chế tạo ra những hàng kim bằng vô vàn các sợi nhỏ này.

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2020

Artificial eyes: a new hope for the blind


Artificial eyes



A new artificial eye could outperform human eyes. Researchers said the device mimics the human eye’s structure. This new device has a faster reaction time than a real eyeball. Researchers said that this electronic device does have the potential for sharper vision than human eyes. The human eyes get its wide field of view and high-resolution eyesight from the dome-shaped retina found at the back of the eyeball. The retina is covered in light-detecting cells or photosensors.



To mimic that architecture in their synthetic eyeball. Researchers used a curved aluminum oxide membrane covered with nanosize sensors made of a light-sensitive material called perovskite. Wires attached to the artificial retina send readouts from those sensors to external circuitry for processing. This is similar to nerve fibers relaying signals from a real eyeball to the brain. 

The artificial eyeball registers changes in lighting faster than human eyes. The new device has a speed of about 30 to 40 milliseconds compared to 40 to 150 milliseconds in a human eye. The new device can also see dim light just like the human eye. Its field of view (100 degrees) isn’t as wide as the human eye’s field of view (150 degrees). But it’s better than the 70 degrees filed found in ordinary flat imaging sensors.



This synthetic eye could perceive a much higher resolution than the human eye because it contains about 460 million light sensors per square centimeter. A human retina has about 10 million light-detecting cells per square centimeter but each sensor will require separate readings and connectivity. 

In the current device, each wire is about one millimeter thick so only 100 such wires fit across the back of the retina. This means that the synthetic eye can currently create images that have 100 pixels. But the team wants to prove that thinner wires could be connected and that the synthetic eye can provide a higher resolution. 

Therefore, they used a magnetic field to attache a small array of metal needles. Each needle is 20 to 100 micrometers thick. They were attached, one by one to nanosensors on the synthetic retina. The researchers said that their next challenge is to find a more efficient way to manufacture vast arrays of tiny wires




Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2020

Cơ nhân tạo siêu mạnh


Cơ nhân tạo siêu mạnh


Các nhà nghiên cứu đã chế tạo ra cơ nhân tạo, khiến nhiều người tập thể hình phải ganh tỵ. cơ nhận tạo có khả năng nhấc bổng chinh trọng lượng cơ thể của nó lên đến 1000 lần. chúng mạnh mẽ và có thể kéo dãn ra đến 15 lần hơn cơ tự nhiên. Sức mạnh và độ linh hoạt của loại cơ này không giảm sút đi thậm chí sau khi đã sự dụng hàng ngàn lần liên tục, chứng tỏ vật liệu này bền đến độ nào.


Dự kiến loại cơ này sẽ được bó lại để tạo ra những giải pháp về sức mạnh có khả năng nhấc bổng các vật nặng hơn lên. Cơ nhân tạo được chế tạo bọc quanh một lõi sợi đã được xoắn lại. những sợi này lại được chế tạo từ loại vật liệu nhẻ và rẻ tiền như tre hay sơi tơ có khả năng căng ra như một bó cơ.



Lõi này lại được bọc lại bằng một lớp bao mỏng bằng loại vật liệu như phần hoạt động của cơ. Lớp bao này có thể đáp ứng lại với những thay đổi về nhiệt hay hóa điện. Khi các nhà nghiên cứu cho vào hay lấy nhiệt ra, thì các bó cơ này sẽ co lại hay giãn ra. Giống y hệt như cơ sinh học thể hiện.



Các nhà nghiên cứu hy vọng sử dụng cơ nhân tạo vào các bộ xương hỗ trợ bên ngoài, người máy, các bộ phận thay thế chi, và thậm chí cả trong quần áo. Người máy tiến bộ nhất chỉ là những cỗ máy được chế tạo từ những loại vật liệu cứng rắn. hiện vẫn có người máy dạng mềm dẻo, nhưng chúng lại bị kiểm soát bởi những máy nén hay máy bơm khí từ bên ngoài để bơm phồng những cấu trúc giống như những chiếc bong bóng



Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu như thứ cơ này “rách” ra? Cơ của chúng ta có khả năng tự sửa chữa về sau. Hiện nay các nhà nghiên cứu thuộc viện đại học Colorado Boulder đã chế tạo ra một loại cơ nhân tạo có khả năng tự lành. Loại cơ này được gọi là HASEL có giá chưa đến 10 xu cho một bó.



Loại cơ nhân tạo này sử dụng các túi bằng nhựa plastic mềm chứa đầy dịch cách điện khi được truyền điện vào, thiết bị này sẽ thay đổi hình dáng. Chất dầu ở bên trong cơ HASEL có thể chịu dược dòng diện giúp thiết bị có độ bền và khả năng tự lành. Cơ HASEL có thể nhấc bổng hơn 200 lần trọng lượng của chính nó, và có năng lực về điện, chúng gia tăng được tốc độ gập của cơ sinh lý.



Cơ nhân tạo HASEL có thể được sử dụng để thực hiện nhiều nhiệm vụ đa dạng, từ việc gắp lên các vật tế nhị một cách nhẹ nhàng như trứng hay quả mâm xôi đến việc nhấc các vật có cân nặng gấp nhiều lần chính trọng lượng của nó, như một gallon nước với tốc độ lập đi lại thật nhanh.



Nó cũng có thể giúp tạo ra mô và các bộ phận nhân tạo ở người. những người máy dạng mềm có thể thực hiện được vô số các hoạt động mà các người máy dạng cứng không thể thực hiện được. chúng có thể nén lại qua một khoảng không gian chật hẹp khi co lại và giãn ra dễ dàng để thích nghi với khí hậu, chúng có thể tăng lên gấp đôi một bộ phận nào đó của cơ thể.



Mặc dù có những lợi ích trên, nhưng người máy hoàn thiện đã từng là một cuộc phấn đấu đối với đội ngũ kỹ sư hàng thập kỷ. tuy nhiên quá trình này đang diễn ra trong những năm gần đây. Việc phát minh ra những robot dạng mềm chủ yếu là “cơ bắp” có thể giúp duy trì theo đúng nhịp tim của con người. cánh tay của loại robot mềm này có thể vặn lại rồi nén theo một động tác tương tự theo nhịp đập của tim.



Điều này sẽ mở ra nhiều chọn lựa điều trị cho người bị suy tim, và với lĩnh vực người máy dạng mềm và cơ nhân tạo có khả năng cách mạng hóa nền công nghiệp y học một cách toàn diện cũng như tạo ra những ảnh hưởng lớn đối với cách mà người công nhân sẽ thực hiện ra sao.


Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2020


Super strong artificial muscles


Researchers have developed artificial muscles that could make bodybuilders jealous. These artificial muscles are able to lift 1,000 times their own weight. They are stronger and can expand 15 times more than natural muscles. The strength and agility of these muscles do not diminish even after thousands of use cycles which just goes to show how durable the material is. 


It is expected that these muscles can be bundled together to create more powerful solutions capable of lifting heavier loads. The artificial muscle was built around a core of twisted fibers. These fibers are made up of cheap and lightweight material such as bamboo or silk that can stretch like a muscle. 

The core is then covered with a thin sheath of material that is the active part of the muscle. This sheath can respond to heat or electrochemical changes when researchers applied or removed heat, the muscles contracted or relaxed. Much like biological ones do.


Researchers hope to use the artificial muscles in exoskeletons, robots, prosthetic limbs, and even clothing. Most advanced robots are machines made from rigid materials, like metals and plastics. Soft robots exist, but they’re typically controlled by external air compressors and pimps used to inflate balloon-like structures. 

Some require voltages that are ten times higher than a household electrical socket to produce a current that simulate movement in stretchy material. Scientists becoming increasingly focused on designing robots using soft materials that more closely resemble biological systems, which can be more adaptable and better suited to working in close proximity to humans. 


But what happens if any of these muscles “tear”?. Our muscles are able to repair themselves over time. Now researchers at the University of Colorado Boulder have built an artificial muscle that might be able to heal itself. The muscle called HASEL cost as little as 10 cents per device. 

This artificial muscle uses soft plastic pouches filled with electrically insulating liquids when voltage is applied, the device changes shape. The oil inside HASEL muscles can withstand electricity giving the device durability and the potential to self-heal. HASEl muscles can lift more than 200 times their weight, and is electrically powered, they exceed the flexing speed of the human muscle.


HASEL can be used to carry out a variety of tasks, from gently picking up delicate objects like eggs or raspberries to lifting objects many times their own weight, such as a gallon of water at rapid repetition rates. 

It could also help in creating artificial human tissue and organs. Soft robots can do a number of actions hard robots simply cannot perform. They can squeeze through tight space they can contract and expand with ease to fit a range of climates, they can even double as a part of the human body. 

Despite the benefits, perfecting robots has been a struggle for engineers for decades. Yet it has seen progress in recent years. A major soft robotics innovation was a “muscle” that could help the human heart maintain proper rhythm. This soft robotic sleeve twists and squeezes in a motion similar to the way heartbeats. 

This opens new treatment options for people suffering from heart filure, and the field of soft robotics and artificial muscles could revolutionize the medical industry as a whole as well as have massive impacts on how labor is performed by workers

Thứ Năm, 21 tháng 5, 2020

Cách giảm nguy cơ bệnh tiểu đường


Cách giảm nguy cơ bị bệnh tiểu đường type 2.



Một vài cách thay đổi lối sống có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường của bạn lên đến 60%. Thức ăn có nhiều chất béo bão hoàn làm tăng nguy cơ bị bệnh tiểu dường type 2. Thói quen ăn thực phẩm có chứa đồ ngọt và tinh bột làm tăng lượng đường huyết của bạn lên sẽ kích thích tụy tạng của bạn tiết ra insulin. Insulin là một kích thích tố giúp cho các tế bào trong cơ thể hấp thụ được đường có trong máu. Theo thời gian, lượng đường huyết tăng cao cuối cùng có thể biến thành bệnh tiểu đường.

Hãy ăn thức ăn có nhiều chất xơ và ít mỡ động vật hay mỡ bão hòa. Tăng cân quá mức là nguyên nhân quan tro5ngduy nhất gây bệnh tiểu đường. để cho tình trạng tăng cân sẽ làm tăng nguy cơ sinh bệnh tiểu đường type 2 gấp 7 lần. cứ giảm được một kilogram (2.2 cân), thì sẽ giảm được nguy cơ bệnh tiểu đường đến 16%.




Nghiên cứu cho thấy tập thể dục và vận động có thể giúp kiểm soát được căn bệnh tiểu đường. trong lúc tập thể dục, các bó cơ của bạn sẽ sử dụng lượng đường dư thừa có trong máu. Quá trình này giúp làm hạ lượng đường huyết và cải thiện được tình trạng nhạy cảm với insulin. Một nghiên cứu phát hiện tập thể dục với mức độ vừa phải cải thiện được độ nhạy với insulin của cơ thể lên đến 51% trong khi các buổi tập có cường độ cao làm tăng lên đến 85%. Hãy bỏ hút thuốc là và bớt uống rượu lại.

Xử lý tình trạng stress để làm giảm nguy cơ phát sinh bệnh tiểu đường sẽ giúp những người đang phải đau khổ vì chứng bệnh tiểu đường type 2. Với chế độ ăn kiểu Keto, cơ thể sẽ biến mỡ thành năng lượng. trong một công trình nghiên cứu, có 262 đối tượng bị bệnh tiểu đường type 2 được cho ăn theo chế độ nhiều béo và ít tinh bột, 94% số người này có khả năng giảm hay không cần đến nhu cầu sử dụng đến insulin của họ và có 6 trong số 10 bệnh nhân đã có lượng đường huyết làm khỏi cả bệnh tiểu đường.







 


How to reduce your risk of type 2 diabetes



Certain lifestyle changes can decrease your risk of developing diabetes by as much as 60%. Food high in saturated fat increases your risk of type 2 diabetes. Eating food with high sugar content and refined carbs increase your blood sugar levels which then stimulates your pancreas to produce insulin. Insulin is a hormone that tells the cells in your body to take up glucose from the blood. Over time, high blood sugar levels can eventually turn into type 2 diabetes.



Eat foods that are high in fiber and low in animal or saturated fats. Escess weight is the single most important cause of diabetes. Being overweight increases the chances of developing type 2 diabetes by 7 fold. For every kilogram (2.2 pounds) of weight lost, the risk of diabetes reduced by 16%.



Research shows that exercise and physical activities can help control diabetes. During exercise, your muscles use any excess sugar in the blood. This help lower blood sugar levels and improves insulin sensitivity. A study found that moderate-intensity exercise improved insulin sensitivity by 51% whereas high sensitivity exercises increased by 85%. Quit smoking and reduce alcohol consumption.



Smokers are 50% at higher risk of developing diabetets that non-smokers. High alcohol intake can damage your glucose metabolism and may cause pancreas inflammation, a condition known as pancreatitis. Over time, this can lead to insulin resistance and diabetes

Manage your stress to reduce your risk of developing diabetes which helps people suffering from diabetes type 2. with keto diet, the body converts fat into energy. in a study, 262 subjects with type 2 diabetes were put on a low carb high-fat diet 94% of them were able to reduce or eliminate their need for insulin and 6 in 10 patients had blood sugar levels reduced to reverse their diabetes


 

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2020

New hope in the fight against Covid-19

America’s biopharmaceutical companies are committed to developing solutions to help diagnose and treat those with COVID-19, a disease caused by a novel strain of coronavirus. In addition to applying their scientific expertise to find ways to diagnose, treat and prevent infections from the virus, the biopharmaceutical industry is providing financial support and in-kind donations to organizations and collaborating with U.S. and global health authorities to combat this global public health emergency. More than half of PhRMA members have R&D for potential treatments and vaccines unde way or are providing donations of medicines and critical medical supplies as well as providing financial donations to support patients and first responders in addressing this evolving crisis.

Các thứ Thuốc tiềm năng đang được nghiên cứu để trị Covid-19


Thuốc trị Covid-19                                                             medicines for Covid-19 infections

1/choroquine has been used to treat patients with malaria for nearly a century. It is a synthetic version of quinine. Quinine is a natural compound found in the bark of cinchona trees. Chloroquine works by essentially slowing down virus entry to cells which can slow the rate of replication. It is already known to be safe for humans and cheap


2/Hydroxychloroquine is closely related to chloroquine. It is regarded as a less toxic metabolite of the malaria drug. It is used to treat certain autoimmune diseases like lupus and rheumatoid arthritis. It has been on the market since the 1950s. it works by disrupting communications between cells in the immune system. Scientists hope it might help mitigate cytokine storms








6/Favipiravir (for Avigian) is  flu drug developed in
Japan. It has shown promising results in treating mild to moderate cases of Covid-19. The antiviral drug has been sued in Japan to treat influenza. It was approved last month as an experimental treatment for Covid-19 infections


7/Actemra is an immunosuppressant that is used to quiet Cytokine storms. Actemra (Tocilizumab) is approved to treat rheumatoid arthritis and juvenile rheumatoid arthritis. It blocks a cell receptor that binds interleukin 6(IL-6). Interleukin 6 is a cytokine or a type of protei released by the immune system that can trigger dangerous inflammatory cascades.

Mối liên quan giữa bệnh cao huyết áp, thuốc điều trị và tình trạng nhiễm Covid-29


Harlan M. Krumholz, MD, SM reviewing Mehra MR et al. N Engl J Med 2020 May 1 Reynolds HR et al. N Engl J Med 2020 May 1 Mancia G et al. N Engl J Med 2020 May 1





Nhiều dữ liệu theo dõi cho thấy hai nhóm thuốc trị bệnh cao huyết áp phổ biến không làm tăng mức độ nhiễm Covid-19 hay mức độ trầm trọng khi mắc bệnh.



Mối liên hệ giữa bệnh tim mạch, phương pháp điều trị bệnh tim mạch, và nguy cơ dẫn đến hậu quả bất lợi cho bệnh nhân bị nhiễm Covid-19 đã và đang được quan tâm rất nhiều. hiện có ba nhóm nghiên cứu khác nhau đang tìm hiểu thêm về vấn đề này.


Để khảo sát xem bệnh tim mạch có phải là một yếu tố nguy cơ đối với những bệnh nhân nhiễm Covid-19 hay không và tìm hiểu mối liên quan giữa phương pháp trị liệu bệnh tim mạch với kết quả tình trạng nhiễm Covid-19, Mehra và đồng nghiệp đã phân tích hồ sơ bệnh án của 8910 người đã tử vong sau khi phải nhập viện vì Covid-19 hoặc đã khỏi bệnh và được cho xuất viện. nhóm nghiên cứu ghi nhận thuốc ức chế men chuyển angiotensin đã được sử dụng phổ biến ở những người sống sót hơn là ở những người đã tử vong. 

Trong một mẫu nghiên cứu đa biến, Nhóm ghi nhận nguy cơ cao gây tử vong có liên quan đến một số yếu tố như độ tuổi >65, bệnh động mạch vành, suy tim sung huyết, rối loạn nhịp tim, bệnh phổi tác nghẽn mạn tính, và bệnh nhân hiện đang hút thuốc.  Phụ nữ, đang dùng thuốc ức chế ACE, và thuốc Statins có nguy cơ tử vong thấp hơn sau khi bị nhiễm Covid-19. Không thấy mối liên hệ nào với các thuốc ngăn chặn thụ cảm angiotensin [ARBs]


Reynolds và các đồng nghiệp đã phân tích chẩn đoán và thuốc sử dụng qua hồ sơ bệnh án của 12.594 bệnh nhân đã được xét nghiệm tìm Covid-19 ở thành phố New York; có 5894 người có kết quả xét nghiệm dương tính. Trong số 2573 bệnh nhân bị cao huyết áp và dương tính với Covid-19, đã có 634 trường hợp bị biến chứng nặng (như phải nằm tại khoa săn sóc tích cực, phải thở máy, hoặc tử vong). Nghiên cứu phân tích này cần có độ sai biệt là 10% để đạt được ý nghĩa thống kê, không có nhóm thuốc nào có liên quan đến nguy cơ thấp lại bị biến chứng nặng, mặc dù thuốc ức chế ACE có độ sai biệt tối đa là 3.3%; không có một nhóm thuốc nào khác đem lại lợi ích ≥1.5%. các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng độ sai biệt cần phải nhỏ hơn nữa mới có ý nghĩa.


Mancia và đồng nghiệp đã nghiên cứu 6272 người (tuổi,≥40) có nhiễm SARS-CoV-2 từ vùng Lombardy ở nước Ý và 30.759 người trong nhóm chứng không bị nhiễm có cùng độ tuổi, giới tinh và nơi cư trú. Những bệnh nhân bị nhiễm Covid-19 được cho sử dụng thuốc ức chế ACE và ARBs phổ biến hơn trong nhóm chứng. tuy nhiên, sau khi điều chỉnh đa biến, các thuốc này không có liên quan gì đến tình trạng nhiễm Covid-19 hay bị biến chứng nặng sau khi bị nhiễm

Hypertension, Medications, and COVID-19 Risks


Harlan M. Krumholz, MD, SM reviewing Mehra MR et al. N Engl J Med 2020 May 1 Reynolds HR et al. N Engl J Med 2020 May 1 Mancia G et al. N Engl J Med 2020 May 1

More observational data show that two common antihypertensive medication classes do not increase COVID-19 infectivity or severity.



The relationship between cardiovascular disease (CVD), CV treatment, and the risk for adverse outcomes in patients with COVID-19 has been receiving much attention. Three other research groups now provide more insights.


To investigate CVD as a risk factor for patients with COVID-19 and the association between CVD pharmacotherapy and COVID-19 outcomes, Mehra and colleagues used a large, de-identified, international database that included 8910 people hospitalized with COVID-19 who either died or were discharged. Angiotensin-converting–enzyme (ACE) inhibitors were more common among survivors than those who died. 

In a multivariable model, higher risks for death were associated with age >65, coronary artery disease, congestive heart failure, cardiac arrhythmia, chronic obstructive pulmonary disease, and current smoking. Being a woman, using ACE inhibitors, and using statins were associated with lower death risks. No associations were found for angiotensin-receptor blockers (ARBs).


Reynolds and colleagues examined diagnoses and medications via electronic health record codes in 12,594 people tested for COVID-19 in New York City; 5894 patients had positive results. The accuracy of coding was not reported. Of 2573 patients with hypertension and positive COVID-19 tests, 634 had severe COVID-19 disease (i.e., intensive care unit admission, mechanical ventilation, or death). 

In analyses requiring differences of 10 percentage points for statistical significance, no medication class was associated with a lower risk for severe disease, although ACE inhibitors had an absolute difference of 3.3%; no other class showed benefits ≥1.5%. The investigators acknowledged that smaller effects could be meaningful.



Mancia and colleagues studied 6272 people (age, ≥40) with SARS-CoV-2 infection from the Lombardy region of Italy and 30,759 uninfected controls matched by age, sex, and residence. Infected patients more commonly used ACE inhibitors and ARBs than controls. However, after multivariable adjustment, these medications were not associated with infection or severe disease.


Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2020

sống đơn độc chưa hẳn đã là điểu tệ hại nhất


Sự cô đơn có thể gây ra tình trạng viêm trong não mô của bạn. người mà có cảm giác bị xã hội cô lập đã có mức độ biểu hiện dấu hiệu của tình trạng viêm cao hơn. Họ cũng cho thấy tăng phản ứng chiến đấu hay bỏ chạy của cơ thể. phản ứng chiến đấu lại hay bỏ chạy bị bất hoạt hóa khi một người đang ở trong trạng thái bị stress. Hiện tượng này có thể khiến một số người bị hoang tưởng về các nỗi sợ hãi. Người sống cô độc cũng có khả năng đi đến quyết kém và thể hiện sự giảm sút trong trí nhớ và học hành.



Người không còn được giao tiếp với xã hội sẽ thể hiện tình trạng quá bức xúc trong các bối cảnh cô đơn kép dài, con người có thể trải nghiệm một sự thay đổi trong cách hành xử của mình và cách mà họ tương tác với thể giới. hiện tượng này là do trạng thái viết lại của những nơi giao tiếp của tế bào thần kinh. Một nghiên cứu đã phát hiện chuột thí nghiệm bị cách ly trong hai tuần sẽ biểu hiện lượng hóa chất có trong mô não cao hơn có liên quan đến những hành vi do stress gây ra. Đây chính là điều khiến chúng sợ hãi và dễ có những phản ứng được chăng hay chớ. Một nghiên cứu khác lại cho thấy tình trạng cách ly một mình sẽ làm teo các tế bào thần kinh ở chuột thí nghiệm.



Các nhà nghiên cứu đã tiến hành một thí nghiệm trên chuột bằng cách cách ly chúng khỏi cộng đồng. sau một tháng bị cách ly, chúng đã có các tế bào thần kinh nhỏ hơn ở một số vùng trong não. Kích thước chung của các tế bào thần kinh đã bị teo nhỏ đi đến 20% sau một tháng bị cách ly. Trạng thái teo nhỏ này vẫn còn tiếp diễn đều đặn hơn 3 tháng sau nếu như chuột vẫn còn bị cách ly.



Người mà sống đơn độc cũng đễ bị bệnh hơn. Hệ miễn dịch của một người cô độc sẽ đáp ứng khác hẳn trong quá trình chiến đấu lại với siêu vi khiến chúng dễ sinh bệnh hơn. Tình trạng cô độc và cách ly xã hội về phương diện thể chất có thể làm tăng nguy cơ chết yểu. nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân bị bệnh tim sống trong tình trạng cô độc lâu ngày dể đưa đến nguy cơ tử vong hơn những người sống cùng trong xã hội. tình trạng cô độc khác với tình trạng cách ly về phương diện thể chất. tình trạng cô độc thực ra là một trạng thái tâm thần. một nghiên cứu đã cho thấy tình trạng cô độc thật sự dễ lây lan qua người khác. Trong một công trình nghiên cứu kéo dài trong 10 năm, giới nghiên cứu đã khảo sát mức độ lây lan của tình trạng cô độc trong bối cảnh xã hội. kết quả cho thấy những người tiếp xúc với người có cuộc sống cô độc cũng có đến 52% cũng sẽ dễ trở nên cô độc như vậy.



Tình trạng bị cách ly hay phải sống đơn độc đôi lúc cũng không hoàn toàn là điều tệ hại nhất. phải sống đơn độc một khoảng thời gian nào đó cũng có lợi cho mạng lưới xã hội đã được mặc định. Trong một bối cảnh xã hội đã được mặc định, những vùng khác nhau trong não vẫn giao tiếp với nhau trong lúc chúng vẫn nghỉ ngơi và tạo ra một cảm giác nhận diện qua tế bào. Sống đơn độc cho phép chúng ta suy ngẫm và tập trung vào chính cuộc sống của chúng ta.



Loneliness can cause inflammation in your brain. People who feel
socially isolated had higher levels of inflammation markers. They
also showed increased activity of the body’s fight or flight
response. Fight or flight inactivated when a person is under a
stressful situation. It can cause some people to become more
paranoid toward threats. People who are lonely also have poor
decision-making skills and show a decrease in learning and
memory.


People who are socially disconnected show signs of extra aggression with prolonged sessions of loneliness, humans can experience a change in their behavior and the way they interact with the world. This is due to the rewriting of the neural synapses. A study found that mice who spend two weeks in isolation show higher levels of brain chemicals related to stress behaviors. This made them more fearful and prone to erratic reactions. Another study shows that solitary isolation shrinks nerve cells in mice.


Researchers performed a study in mice by isolating them from their community. After a month of isolation, they had smaller nerve cells in certain parts of the brain. The overall size of the neurons shrunk by about 20% after a month of isolation. That shrinkage remained steady over 3 months as the mice remained in isolation. People who are lonely are also more susceptible to illness. 


Lonely a person’s immune system responds differently to fighting viruses making them more likely to develop an illness. Loneliness and physical social isolation can lead to a 30% increased risk of premature death. Research shows that heart patients with chronic loneliness are 3 times more susceptible to the risk of sying than their more social peers. Loneliness is different than physical isolation. Loneliness is actually a state of mind. One study suggests that loneliness may actually be contagious in a ten-year study, the researcher examined how loneliness spreads in social networks. The results showed that people close to someone experiencing loneliness were 52% more likely to become lonely as well.


Isolation or being alone at times isn't always the worst thing. Being alone for a bit of time benefits our default mode network. In default mode network different parts of the brain intercommunicate while are at rest and create a sense of cell-identity. Being alone allows us to contemplate and focus on our lives

Thứ Năm, 14 tháng 5, 2020

loài người vẫn còn đang tiến hóa theo thời gian?


Loài người còn tiến hóa không? Nhiều người cứ nghĩ sự tiến hóa như một điều gì đó xa xưa, chuyện đã xảy ra cách đây hàng tỷ tỷ năm qua từ những vi sinh vật đơn bào và chu trình tiến hóa ấy đã kết thúc ở thời loài người hiện đại ngày nay. Nhưng điều đó hoàn toàn không đúng như thế!. trái với lối nghĩ thông thường ấy, loài người vẫn không ngừng tiến hóa. Quá trình ấy vẫn đang tiếp diễn và cơ thể chúng ta đang thay đổi rất nhiều và có lẽ còn thay đổi nhanh hơn bao giờ hết!


Chúng ta hãy xem xét quá trình này dưới cái nhìn khoa học nhé. Hãy bắt đầu quan sát mắt của con người. không cần phải đi sâu vào bên trong con mắt đâu, cho dù lịch sử tiến hóa thật là hấp dẫn đấy. nhưng cứ nhìn vào màu sắc của mắt nhé! Gần 17% dân số trên thế giới có tròng mắt màu xanh, nghe có vẻ không nhiều, nhưng 10.000 năm trước thì chưa ai từng nghe nói về người nào có mắt xanh cả.



Các nhà nghiên cứu tin rằng tròng mắt xanh là do quá trình đột biến ở một dòng dõi duy nhất cách đây từ 6.000 đến 10.000 năm. Khi bạn nhận ra loài người hiện đại đã tồn tại từ rất lâu rồi. thì rõ ràng rằng quá trình tiến hóa của loài người có thể vẫn đang tiếp diễn đó.



Vậy còn não thì sao? Não là một bộ phận chúng ta rất coi trọng, nhưng bộ não của chúng ta đang cứ teo nhỏ dần lại hơn 30.000 năm qua, thể tích trung bình của bộ não con người đả giảm xuống từ 1,5 cm3 xuống còn 1.35cm3. Đó là sự giảm khoảng 10% về kích thước.



Ôi, thế còn răng thì sao? Răng khôn là bộ răng hàm cuối cùng mọc trong hàm và chúng đã giúp cho tổ tiên chúng ta ngày trước ăn được thức ăn dai nhách và sống xít khiến răng của họ bị mòn đi nhiều lắm. Ngày nay, nhờ các lọai thức ăn đã được nấu chín và thái cắt, nên thức ăn của chúng ta đã trở nên mềm và dễ nhai hơn. Hậu quả là, hàm của chúng ta cũng đã trở nên nhỏ dần đi và thế là trong miệng không còn dủ chỗ cho răng khôn mọc ra nữa. theo một số ước tính, thì có đến 35% dân số sinh ra không có răng khôn, và một số nhà nghiên cứu tin rằng răng khôn cuối cùng sẽ biến mất. còn những người vẫn còn mọc răng khôn thường lại phải đi mổ mà lấy vứt nó đi.



Còn xét về quá trình tiến hóa trong bộ gen, thì người ta thấy máu của dân Tây Tạng sản sinh ra nhiều protein chuyên chở dưỡng khí hơn, được gọi là hemoglobin một thứ thật hấp dẫn hơn mọi sự mà chính quá trình tiến hóa ở loài người đã tạo ra. 

Quá trình tiến hóa ở loài người có vẻ tăng nhanh trong hơn 5000 năm qua, loài người đả tiến hóa nhanh gấp hơn cả 100 lần so với bất kỳ thời điểm nào trong 6 triệu năm qua. Giả định được nhiều người cho rằng quá trình tiến hóa đang giảm dần bởi vì chúng ta đã chinh phục được thiên nhiên hoàn toàn là không đúng vì chúng ta đâu đã chinh phục được thiên nhiên chút nào đâu, đơn giản chúng ta chỉ phát triển theo kiểu nương theo hoàn cảnh và kinh nghiệm mà chúng ta chọn lựa thế thôi.



Các nhà nghiên cứu đã phân tích các dữ liệu từ bản đồ gen ở thể đơn bội trên toàn thế giới và họ đã phân tích dấu tích gen di truyền trong số 270 người thuộc bốn nhóm dân tộc, người Hán (Trung Quốc), Người Nhật, dân tộc Yoruba ở Châu Phi và dân Bắc Âu. Họ đã phát hiện ra ít nhất có 7% số gen của con người đã trải qua một quá trình tiến hóa mới đây. Những thay đổi ấy bao gồm da trở nên trắng hơn và có tròng mắt xanh ở dân tộc Bắc Âu, và có sức đề kháng phần nào với bệnh tật như bệnh sốt rét ở một số dân gốc Châu Phi. Một số những thay đổi này được tiếp diễn từ hơn 5000 năm trước và ngày nay những thay đổi này chiếm đến 30-40% ở loài người bởi vì đây chính là một ưu thế của quá trình tiến hóa. Thí dụ như, nhiều người Trung Hoa và người Châu Phi không thể ăn được chất đường lactose và uống sữa. nhưng ở khắp Châu Âu, gen dung nạp được lactose hiện nay đang lại trở nên phổ biến



Một lý do nữa mà chúng ta đang xem xét đến là sự gia tăng về tốc độ tiến hóa chính là sự gia tăng về dân số toàn cầu. khi dân số tăng lên,nghĩa là loài người đang sinh sản nhiều hơn, và điều đó có nghĩa là những quá trình đột biến vẫn có khả năng tiếp diễn. 

Sự tiến hóa ở loài người sẽ không ngừng lại ở bất kỳ thời điểm nào. Chắc chắn quá trình tiến hóa ở loài người sẽ vẫncòn tiếp diễn cho đến khi loài người trở thành một thứ gì đó trông hoàn toàn khác.  Carl Sagan đã viết “ Quá trình tiến hóa sẽ không chỉ dừng lại khi chúng ta đến được chùm sao Alpha Centauri (chum sao gần hệ mặt trời nhất của chúng ta) và những ngôi sao khác kế cận. quá trình tiến hóa cũng sẽ là tạo ra một giống loài giống như chúng ta ngày nay. Nhưng càng lúc sức mạnh của chúng ta càng mạnh hơn và nhược điểm của chúng ta càng ít hơn.”




Are humans not evolving?


Are humans still evolving? Many people think of evolution as a thing of the past, something that starts billions of years ago with single-celled organisms and ended with modern humans. But that couldn’t be further from the truth! Contrary to popular belief, humans haven’t stopped evolving. It is still happening and we are actively changing and it’s possible that it’s happening faster than ever! 

Let’s take a look at the scientific evidence for this. Let’s start with the human eye. Not the inner workings of the eye, though the evolutionary history there is fascinating. Let’s look at the color! Roughly 17% of the world's population has blue eyes that may not sound like a lot, but 10,000 years ago people with blue eyes were unheard of. 

Researchers believe that blue eyes came from a mutation in a single ancestor between 6,000-10,000 years ago when you recognize that modern humans have existed for much longer than that. It’s clear that evolution couldn't have stopped with the rise of humanity. 

And what about the brain? We think pretty highly of our brains, but it turns out brains have actually been shrinking over the past 30,000 years, the average volume of the human brain has decreased from 1.500 cubic centimeters to 1.350 cubic centimeters that’s a reduction in the size of about 10%! 

Oh, and what about our teeth? Wisdom teeth are the last set of molars in our mouths and they were helpful to our early ancestors who ate tough, uncooked foods that wore away their teeth. Today, thanks to cooking and cutlery, our food has become softer and easier to chew. As a result, our jaws have become much smaller and there is just not enough room left for the wisdom teeth anymore. According to some estimates, 35 percent of the population is born without wisdom teeth, and some researchers believe that wisdom teeth will eventually disappear altogether. those of us who still grow wisdom teeth often have to have them surgically removed. 

As evolution continues, it’s likely that the humans of the future will not have to deal with this painful struggle. Lucky them!. We can even see traces of human evolution in our lungs! Well, some of us, people who are native to Tibet are able to live in the Himalayan mountains with low oxygen levels, but it’s not that they’re just…used to it. Living with low oxygen levels over several generations has led to mutations in their genes. 

As a result of this genetic evolution, Tibetan peoples’ blood produces more of the oxygen-transporting protein called hemoglobin what is possibly more fascinating than all of this is that evolution in humans appears to be speeding up in the past 5,000 years, humans have evolved up to 100 times more quickly than at any time in 6 million years. The widespread assumption that human evolution has shown down because we’ve conquered nature is absolutely not true we haven’t conquered nature at all, we simply have developed ways to curate our surroundings and experiences to our liking. 

Researchers have analyzed data from the international haplotype map and analyzed genetic markers in 270 people from four groups, Han Chinese, Japanese, Africa’s Yoruba people, and northern Europeans. They found that at least 7% of human genes have undergone recent evolution, the changes include lighter skin and blue eyes in northern Europe, and partial resistance to disease such as malaria among some African populations. Some of the changes were traced back to just 5,000 years ago and today they are in 30 or 40% of people because they are an evolutionary advantage . for example, many Chines and African adults cannot digest lactose and milk. But across Europe, a lactose tolerance gene is now widespread. 

Another reason we are seeing an increase in evolutionary speeds is the rise in the global population. As the population grows, humans are reproducing more frequently, and that means mutations are able to be passed on. Evolution in humans probably won’t stop anytime soon. In fact, it will likely continue until humans become something else entirely. As Carl Sagan put it,” It will not be we who reach Alpha Centauri and the other nearby stars. It will be a species very much like us. But with more of our strengths and fewer of our weaknesses.”

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2020

Tình trạng thiếu ngủ tác động đến hệ miễn dịch ra sao?


                Tình trạng thiếu ngủ có thể làm tổn hại đến hệ miễn dịch của bạn và khiến cho bạn dễ bị nhiễm bệnh hơn. Hệ miễn dịch của bạn sản xuất ra chất cytokines trong khi bạn đang ngủ. Cytokines là những phân tử đặc biệt giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng và viêm. Khi bạn ngủ không đủ giấc, thì quá trình sản xuất chất cytokines sẽ giảm đi, khiến cho cơ thể bạn đễ bị nhiễm siêu vi và vi trùng hơn

        
Trong khi ngủ, các tế bào miễn dịch của bạn sẽ ngưng di chuyển. cơ thể của bạn sẽ loại bỏ đi những tế bào già nua và sản sinh ra những tế bào mới. hiện tượng này cũng chính là những gì xảy ra trong não. Quá trình này sẽ thải bỏ các chất độc hại và giúp bạn chuẩn bị cho một ngày mới. nồng độ chất interleukin-7 tăng lên trong giấc ngù. IL-7 đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và sống còn của các tế bào T. tế bào T giống như đội binh của hệ miễn dịch có nhiệm vụ truy tìm và tiêu diệt những tế bào đã bị nhiễm mầm bệnh.


Một giấc ngủ kém thường xuyên có thể gây ra hiện tượng viêm. Viêm là một phản ứng đề kháng tự nhiên của cơ thể chống lại nhiễm trùng. Nhưng khi quá trình viêm này xảy ra quá thường xuyên hoặc vào những thời điểm không thích hợp. nó có thể đẫn đến những bệnh lý như các bệnh tự miễn. việc có được giấc ngủ ngon sẽ giúp cho cơ thể bạn chống lại được quá trình viêm này.


Tình trạng thiếu ngủ cũng tác động đến cách chúng ta đáp ứng lại với tình trạng nhiễm siêu vi. Khi chúng ta không ngủ đúng giấc, thì hệ miễn dịch của chúng ta sẽ bị ức chế. Điều này dẫn đến qua trình sản sinh ra ít kháng thể cần thiết để loại bỏ siêu hơn. Thiếu ngủ làm gia tăng nguy cơ những tình trạng sức khỏe khác như các bệnh lý về tim mạc và bệnh Alzheimer. Ngủ kém khiến cho các protein Alzheimer hình thành trong mô não. Các nhà nghiên cứu không biết liệu sự xuất hiện với nồng độ protein Alzheimer cao có phải là do tình trạng thiếu ngủ đã ngăn chặn quá trình vệ sinh thường quy trong mô não hay là do mô não đã sản xuất ra nhiều protein này hơn do thức quá lâu.



Tình trạng thiếu ngủ còn làm tăng lượng kích thích tố gây stress cortisol lên gây ức chế hệ miễn dịch của bạn. lượng cortisol tăng lên gây căng thẳng trên hệ tuần hoàn của bạn do nhịp tim bị tăng lên. Huyết áp tăng dần theo thời gian có thể đua đến những vấn đề về tim mạch. Có khoảng 20% người trên thế giới đang bị chứng thiếu ngủ. đối với một cơ thể khỏe mạnh, bạn cần mỗi đêm ngủ yên giấc từ 7-8 giờ.


sleep deprivation linked to your immune system response


Lack of sleep can impair your immune system and make you more vulnerable to infection. Your immune system produces cytokines when you are sleeping. Cytokines are special molecules that help your body in fighting infection and inflammation. When you don’t get proper sleep, the production of these cytokines is reduced, leaving your body more prone to viral and bacterial infections. 

When you are sleeping, your immune cells stop circulating. Your body gets rid of the older cells and creates new ones. This is what actually happens in the brain as well. It removes the toxic waste and prepares you for the next day. The concentration of interleukin-7 (IL-7) increases during your sleep. IL-7 play an uimportant role in the development and survival of T-cells. T-cells are like the soldiers of the immunesystem that seek out and destroy cells that are infected with a pathogen.


A poor sleep routine can cause inflammation. Inflammation is the natural defense response of the body during fighting infection. But when this inflammation occurs too often or at the wrong times. It can lead to problems such as autoimmune diseases. Getting good sleep helps your body to counteract inflammation.



Sleep deprivation also affects how we respond to viral infection. When we do not get proper sleep, our immune system is suppressed. This results in the production of fewer antibodies that are needed to fight off viruses. Sleep deprivation increases the risk of other health conditions such as cardiovascular problems and Alzheimer’s disease. Poor sleep allows Alzheimer’s protein to build up in the brain. Researchers don’t know if the presence of higher levels of Alzheimer’s protein is because sleep deprivation stopped the brain’s routine cleaning process or because the brain produced more of this protein as a result of being awake for so long.



Lack of sleep increases the levels of the stress hormone cortisol which then suppresses your immune system. Elevated levels of cortisol put strain on your circulatory system due to increased heart rate. Increased blood pressure over time can lead to cardiovascular problems. Around 20% of people in the world are sleep deprivation. For a health body, you should get 7-8 hours of undisturbed sleep evey night.